Các chất phát sinh gây ô nhiễm trong phòng khám như máu, dịch cơ thể, giặt quần áo bệnh nhân, khăn lau, chăn mền cho các giường bệnh, súc rửa các vật dụng y khoa, xét nghiệm, giải phẩu, sản nhi, vệ sinh, lau chùi làm sạch các phòng bệnh, ngoài ra còn một phần nước thải sinh hoạt từ quá trình vệ sinh cá nhân của bệnh nhân và cán bộ, công nhân viên trong bệnh viện.
Do đặc thù của nguồn nước thải bệnh viện thường chứa nhiều khuẩn coliform, fecal – colifom, các chất hữu cơ, các chất dinh dưỡng của N, P, các chất rắn lơ lửng và các vi trùng, vi khuẩn gây bệnh.,…Bởi vậy, việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện là một công việc khá khó khăn.
Trong đó, các chất hữu cơ có trong nước thải làm giảm lượng DO trong nước, ảnh hưởng đến đời sống thực vật thuỷ sinh. Đặc biệt, nguồn nước thải bệnh viện có chứa rất nhiều vi trùng, vi khuẩn gây bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm như thương hàn, tả, lỵ,… có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng.
Tuy nhiên nồng độ BOD5, COD trong nước thải không cao rất thích hợp cho quá trình xử lý sinh học.
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI BỆNH VIỆN:
THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI:
Nước thải Y tế từ các nguồn phát sinh được dẫn về bể thu gom nước thải. Bể thu gom có đặt giỏ chắn rác nhằm loại bỏ các cặn rắn và chất hữu cơ có kích thước lớn, như bao nylon, vải vụn… nhằm tránh gây hư hại bơm hoặc tắc nghẽn các công trình phía sau. Ngoài ra, bể gom còn có tác dụng lắng một phần chất rắn trong nước thải. Sau đó nước thải chảy sang bể điều hòa, bể điều hòa có tác dụng điều hòa lưu lượng và nồng độ nước thải, tránh hiện tượng quá tải vào các giờ cao điểm; Do đó giúp hệ thống xử lý nước thải bệnh viện làm việc ổn định. Trong bể điều hòa có bố trí hệ thống thổi khí nhằm xáo trộn nước thải đồng thời cung cấp oxy nhằm giảm một phần BOD.
Từ bể điều hòa, nước thải được bơm qua bể phân hủy sinh học trong điều kiện thiếu oxy – bể Anoxic. Quá trình này nhằm loại bỏ một phần các chất hữu cơ trong nước thải bệnh viện đồng thời khử Nitơ từ Nitrat do dòng tuần hoàn từ bể hiếu khí. Bể Anoxic là nơi lưu trú của các chủng vi sinh khử N, P, nên quá trình nitrat hoá và quá trình photphoril hóa xảy ra liên tục ở đây. Để khử nitrat hóa thuận lợi, tại bể Anoxic bố trí giá thể vi sinh, giúp tăng diện tích bề mặt, đẩy nhanh quá trình phát triển và phân hủy các chất hữu cơ của vi sinh vật. Từ bể Anoxic nước thải sẽ tự chảy sang bể xử lý sinh học hiếu khí Aerotank kết hợp với quá trình lọc màng MBR.
Bể anoxic kết hợp Aerotank được lựa chọn để xử lý tổng hợp: khử BOD, nitrat hóa, khử NH4+ và khử NO3- thành N2, khử Phospho. Với việc lựa chọn bể bùn hoạt tính xử lý kết hợp đan xen giữa quá trình xử lý thiếu khí, hiếu khí sẽ tận dụng được lượng cacbon khi khử BOD, do đó không phải cấp thêm lượng cacbon từ ngoài vào khi cần khử NO3-, tiết kiệm được 50% lượng oxy khi nitrat hóa khử NH4+ do tận dụng được lượng oxy từ quá trình khử NO3-.
Oxy (không khí) được cấp vào bể Aerotank bằng các máy thổi khí (Airblower) và hệ thống phân phối khí có hiệu quả cao với kích thước bọt khí nhỏ hơn 10 µm. Lượng khí cung cấp vào bể với mục đích: (1) cung cấp oxy cho vi sinh vật hiếu khí chuyển hóa chất hữu cơ hòa tan thành nước và carbonic, nitơ hữu cơ và ammonia thành nitrat NO3-, (2) xáo trộn đều nước thải và bùn hoạt tính tạo điều kiện để vi sinh vật tiếp xúc tốt với các cơ chất cần xử lý, (3) giải phóng các khí ức chế quá trình sống của vi sinh vật, các khí này sinh ra trong quá trình vi sinh vật phân giải các chất ô nhiễm, (4) tác động tích cực đến quá trình sinh sản của vi sinh vật. Tải trọng chất hữu cơ của bể trong giai đoạn xử lý aerotank dao động từ 0,32-0,64 kg BOD/m3.ngày đêm.
Trong bể Aerotank có một ngăn đặt hệ thống màng lọc sinh học MBR. Đây chính là điểm khác biệt so với quá trình xử lý nước thải bằng biện pháp sinh học truyền thống. Thông thường sau Aetotank sẽ là bể lắng cấp II và bể khử trùng. Bể lắng cấp hai làm nhiệm vụ tách bùn hoạt tính ra khỏi nước thải bằng trọng lực. Bùn lắng sẽ được tuần hoàn một phần lại Aerotank để duy trì mật độ vi sinh vật trong bể nhằm ổn định hiệu quả xử lý. Bể khử trùng làm nhiệm vụ tiêu diệt các vi sinh vật có trong nước thải bệnh viện, đảm bảo nước thải trước khi đi vào môi trường phải đạt yêu cầu vể mặt vi sinh. Đối với quá trình xử lý sinh học Aerotank – MBR thì không cần xây dựng bể lắng và bể khử trùng. Hệ thống màng MBR có kích thước lỗ màng bằng 0.4µm nên khi bơm chân không hoạt động nước sạch sẽ được hút qua các mao quản có kích thước bé và đi vào ngăn chứa nước sau xử lý còn bùn hoạt tính và các vi sinh vật sẽ được giữ lại trong hệ thống. Điều này cho phép duy trì mật độ vi sinh vật rất cao trong bể phản ứng. Do vậy hiệu quả loại bỏ các chất ô nhiễm rất cao, nước thải bệnh viện sau xử lý luôn đạt tiêu chuẩn môi trường.
Định kỳ cần tiến hành rửa màng lọc khi các vi sinh vật bám vào bề mặt màng làm gia tăng độ giảm áp khiến lưu lượng hút của bơm chân không giảm. Quá trình rửa có thể thực hiện bằng không khí và hóa chất. Nước rửa màng sẽ được tuần hoàn về bể gom để tiếp tục xử lý. Bùn dư từ hệ thống phân hủy sinh học sẽ được bơm về bể chứa bùn. Bùn sau thời gian phân hủy sinh học sẽ giảm thể tích và lắng xuống đáy và được hút bỏ định kỳ. Phần nước tách ra sẽ tuần hoàn vể bể gom.
Nước sau xử lý đạt QCVN 28:2010/BTNMT – CỘT A từ bể chứa sẽ được bơm ra hệ thống thoát nước của khu vực.